Báo cáo kết quả
kinh doanh thể hiện các kết quả của hoạt động kinh doanh trong một khoảng thời
gian nhất định. Ở đây cụm từ “khoảng thời gian nhất định” có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng.
Không giống như
bảng cân đối kế toán, vốn là bảng tóm tắt vị trí của doanh nghiệp tại một thời
điểm, báo cáo kết quả kinh doanh phản ánh kết quả tích lũy của hoạt động kinh
doanh trong một khung thời gian xác định.
Nó cho biết liệu
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có đem lại lợi nhuận hay không - nghĩa là
liệu thu nhập thuần (lợi nhuận thực tế) dương hay âm. Đó là lý do tại sao báo
cáo kết quả kinh doanh thường được xem là báo cáo lỗ lãi. Ngoài ra, nó còn phản
ánh lợi nhuận của công ty ở cuối một khoảng thời gian cụ thể - thường là cuối
tháng, quý hoặc năm tài chính của công ty đó. Đồng thời, nó còn cho biết công
ty đó chi tiêu bao nhiêu tiền để sinh lợi - từ đó bạn có thể xác định được tỷ lệ
lợi nhuận trên doanh thu của công ty đó.
Báo cáo kết quả
kinh doanh được thể hiện bằng một biểu thức đơn giản như sau:
Doanh thu - Chi
phí = Thu nhập thuần (hoặc Lỗ thuần)
Một báo cáo thu
nhập bắt đầu bằng doanh thu: số tiền thu được từ việc bán hàng hóa và dịch vụ
cho khách hàng. Một công ty cũng có thể có các khoản doanh thu khác. Trong nhiều
trường hợp, những khoản này đến từ các khoản đầu tư hoặc thu nhập lãi suất từ số
dư tiền mặt. Sau đó, lấy doanh thu này trừ đi những chi phí khác - từ chi phí sản
xuất và lưu kho hàng hóa, đến việc khấu hao nhà xưởng và trang thiết bị, chi
phí lãi suất và thuế. Số tiền còn lại là thu nhập thuần, hay còn gọi là lợi nhuận
thuần, trong khoảng thời gian lập báo cáo.
Hãy xem xét ý
nghĩa của các mục khác nhau trên báo cáo kết quả kinh doanh của một công ty. Giá vốn hàng bán là những khoản
mà công ty dùng cho việc sản xuất sản phẩm. Con số này bao gồm chi phí nguyên vật
liệu thô cũng như toàn bộ chi phí chế biến thành phẩm, gồm cả chi phí lao động
trực tiếp. Lấy doanh thu bán hàng trừ giá vốn hàng bán, ta được lợi nhuận gộp -
ước tính sơ bộ về khả năng lợi nhuận của công ty.
Loại chi phí
quan trọng kế tiếp là chi phí hoạt động. Chi phí hoạt động bao gồm lương nhân
viên, tiền thuê, chi phí bán hàng và tiếp thị, và những chi phí kinh doanh khác
không trực tiếp quy vào chi phí sản xuất sản phẩm. Nguyên liệu để sản xuất giá
treo không được tính vào đây, mà chỉ bao gồm chi phí quảng cáo và lương nhân
viên.
Khấu hao được
tính trong báo cáo kết quả kinh doanh như một khoản chi phí, dù nó không liên
quan đến các khoản thanh toán tiền mặt. Khấu hao là cách ước tính “mức tiêu thụ”
của một tài sản, hoặc việc giảm giá trị trang thiết bị theo thời gian. Ví dụ, một
chiếc máy vi tính mất khoảng 1/3 giá trị trong năm đầu sau khi mua. Vì vậy,
công ty không thể tiêu tốn toàn bộ giá trị của chiếc máy tính trong năm đầu mà
trên thực tế nó được sử dụng trong ba năm. Ý tưởng đằng sau khấu hao này là nhằm
nhận ra giá trị bị sụt giảm của một tài sản nào đó.
Lấy lợi nhuận gộp
trừ chi phí hoạt động và khấu hao, ta được lợi nhuận hoạt động. Những khoản lợi
nhuận này thường được gọi là lợi nhuận trước thuế và lãi vay (EBIT).
Chúng ta tiếp tục
xem những khoản giảm trừ cuối cùng đối với doanh thu. Chi phí lãi suất là lãi
suất phải trả từ các khoản vay mà một công ty sử dụng. Thuế thu nhập - thuế thu
bởi chính phủ trên thu nhập của công ty, là khoản cuối cùng phải nộp.
Phần doanh thu
còn lại được gọi là thu nhập thuần, hoặc lợi nhuận thực tế. Nếu thu nhập thuần
có giá trị dương thì công ty làm ăn có
lãi. Ngược lãi nếu thu nhập thuần có giá trị âm thì có nghĩa là công ty bị thua
lỗ.
Ý nghĩa của báo
cáo kết quả kinh doanh
Cũng như với bảng
cân đối kế toán, phân tích về báo cáo kết quả kinh doanh của một công ty được hỗ
trợ rất nhiều khi thể hiện bằng định dạng đa kỳ. Điều này cho phép chúng ta
phát hiện các xu hướng và sự chuyển biến. Hầu hết các báo cáo thường niên cung
cấp các dữ liệu đa kỳ, trong vòng 2 năm hoặc hơn (các báo cáo của các công
ty nước ngoài thường là 5 năm).
Ví dụ: Trong mẫu
định dạng nhiều năm của công ty XYZ, chúng ta thấy doanh số bán lẻ hàng năm của
công ty dần dần tăng, trong khi doanh số bán hàng của công ty vẫn giữ nguyên và
thậm chí có xu hướng giảm nhẹ, tuy nhiên, chi phí hoạt động luôn giữ nguyên
ngay cả khi tổng doanh số tăng lên. Khi đó chúng ta có thể kết luận đây là dấu
hiệu tốt đối với quản lý vì nó giúp duy trì chi phí để hoạt động kinh doanh. Nếu
chi phí lãi suất của công ty cũng giảm đi, thì chúng ta có thể suy đoán khả
năng công ty đã thanh toán một trong các khoản vay của mình. Cuối cùng nếu là
thu nhập thuần tăng đều qua các năm, thì có nghĩa là công ty đang tăng trưởng tốt.